Tin tức - Đổi mới dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục - Góc nhìn chuyên gia

Theo lời mời của Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội cùng phối hợp với Viện Nghiên cứu lập pháp và Khoa Luật (Trường Đại học Vinh) tổ chức Hội thảo Khoa học với chủ đề: "Pháp luật về dịch vụ công trên thế giới và ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn":
 
Theo đó, Tiến sỹ Lê Ngọc Khánh - Hiện đang công tác làm việc tại Công ty Luật TGS (thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) tham gia buổi hội thảo. Nhằm xây dựng, hỗ trợ và đóng góp ý kiến với mong muốn buổi hội thảo đạt được kết quả tốt nhất. Cho nên, Tiến sỹ Lê Ngọc Khánh (có sự hỗ trợ của cán bộ trợ lý) đã viết nên bài viết tham luận khoa học mang chủ đề: "ĐỔI MỚI DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC".
 
 
Dịch vụ công ra đời là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều loại dịch vụ công phục vụ nhu cầu chung, một trong các lĩnh vực dịch vụ công ngày càng được nhà nước quan tâm chú trọng hiện nay là Giáo dục. Đây là loại hình dịch vụ khá đặc biệt vì cung ứng dịch vụ này cũng đồng thời là đầu tư tạo nguồn nhân lực cho tương lai nên chất lượng dịch vụ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người thụ hưởng dịch vụ mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội.
 
Dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục bao gồm tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Chính phủ về giáo dục. Vấn đề dịch vụ công về giáo dục luôn được cả xã hội quan tâm, đồng thời cần và có khả năng thu hút rất nhiều lực lượng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình cung ứng dịch vụ này.
 
Trong thời đại cách mạng 4.0, trí tuệ trở thành động lực chính của sự gia tăng tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, do đó giáo dục chính là một dịch vụ công do nhà nước cung cấp cho người dân qua các tổ chức nhà nước hay qua việc hỗ trợ tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân và giáo dục được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trên con đường phát triển.
 
Ở nước ta pháp luật điều chỉnh về dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục được quy định trong một số văn bản khác nhau như Luật giáo dục, Luật giáo dục Đại học và một số văn bản dưới luật. Nội dung các văn bản đã thể hiện rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc quản lý dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.
 
Việt Nam đã có nhiều bước tiến quan trọng trong việc đổi mới nâng cao chất lượng dịch vụ công nói chung và dịch vụ công trong giáo dục nói riêng. Thực hiện chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ và Thông báo số 37-TB/TW ngày 26/5/2011 của Bộ Chính trị thông báo về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công”, ngành Giáo dục và Đào tạo đã đẩy mạnh cải cách hành chính đổi mới nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục công từ đó đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục trong thời gian tới như:
 
- Quản lý Nhà nước về giáo dục còn một số tồn tại, hạn chế. Công tác đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, không đảm bảo liên thông, đầu tư phân tán, hiệu quả còn hạn chế, tình trang sinh viên ra trường thất nghiệp nhiều. Hệ thống văn bản pháp quy liên quan tới công tác quản lý còn thiếu và chưa hoàn thiện, đồng bộ.
 
- Mặc dù Nhà nước đã giao nhiều hơn tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập nhưng năng lực quản lý của các đơn vị này còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong môi trường chuyển đổi. Các đơn vị sự nghiệp còn chậm được đổi mới trong công tác quản lý, triển khai thực hiện nhiệm vụ.
 
- Cơ chế tài chính cho giáo dục còn nhiều bất hợp lý, chưa góp phần tạo động lực cho giáo dục và đào tạo tự phát triển nhanh với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục đào tạo chưa gắn với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo (giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất,...), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình quân.
 
- Các định mức kỹ thuật cần thiết phục vụ cho công tác phân bổ ngân sách cho các trường đại học cũng như làm cơ sở để tính mức chi đào tạo cho các ngành vẫn chưa được xây dựng và ban hành dẫn tới việc giao ngân sách cho các trường đại học vẫn được thực hiện theo hình thức bình quân, không phân biệt ngành đào tạo.
 
 
Từ những bất cập trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp để đổi mới như sau:
 

1. Nhà nước chỉ trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công quan trọng trong giáo dục.

 
Dịch vụ công là dịch vụ do Nhà nước chịu trách nhiệm, vì thế Nhà nước phải trực tiếp thực hiện cung ứng một số dịch vụ công thông qua các cơ quan tổ chức của mình lập ra. Tuy nhiên, Nhà nước cần nghiên cứu, xác định rõ các dịch vụ nào thực sự cần thiết phải trực tiếp làm, phạm vi đến đâu để tránh ôm đồm quá với khả năng cho phép nhất là về tài chính và bộ máy nhân sự.
 
Xu hướng chung của thế giới hiện nay là nhà nước chỉ trực tiếp thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm. Trong điều kiện Việt Nam, Nhà nước vừa đẩy mạnh xã hội hóa các loại dịch vụ công về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phân cấp mạnh cho các cấp chính quyền địa phương trực tiếp quản lý và thực hiện các loại dịch vụ công liên quan trực tiếp đến đời sống công dân, cộng đồng. Vì vậy, Chính phủ, các Bộ chỉ trực tiếp thực hiện cung cấp những loại dịch vụ quan trọng, đòi hỏi chất lượng và trình độ cao. Các dịch vụ công mà xã hội có thể đảm nhận được, Nhà nước thực hiện chuyển giao, khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tư nhân thực hiện trong sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Các dịch vụ công nào sau một thời gian, xã hội có thể hoàn toàn đảm nhiệm được và người dân có thể chấp nhận được với giá cả thị trường thì chuyển thành các dịch vụ thông thường. Cần thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý và cung ứng dịch vụ công; tăng cường vai trò của người dân trong việc giám sát đánh giá hiệu quả và chất lượng cung ứng dịch vụ công.
 

2. Xây dựng cơ chế chính sách chung, thống nhất, đồng thời hoàn thiện cơ chế chính sách cho dịch vụ công trong giáo dục.

 
Dịch vụ công gồm nhiều loại và trong mỗi loại lại có nhiều hình thức dịch vụ cụ thể mang những tính chất riêng. Tham gia vào cung ứng các dịch vụ đó trong điều kiện xã hội hiện đại, gồm nhiều chủ thể khác nhau: Nhà nước, thị trường, các tổ chức xã hội, các cá nhân... Ngay trong khu vực nhà nước cũng gồm nhiều chủ thể khác nhau: cơ quan hành chính, tổ chức đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước. Việc cung ứng dịch vụ của các chủ thể nhằm những mục đích khác nhau. Chính vì vậy, Nhà nước phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách đối với việc cung ứng dịch vụ công làm căn cứ pháp lý để tổ chức, chỉ đạo thống nhất. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để các tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn và tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công một cách hiệu quả.
 
Mặt khác, việc xây dựng, hoàn chỉnh chính sách về dịch vụ công còn là để đảm bảo sản phẩm hàng hóa dịch vụ công đến tận tay người được hưởng thụ, khắc phục sự thất thoát từ những tổ chức thực hiện dịch vụ. Trong một số lĩnh vực, cần nghiên cứu cơ chế cấp ngân sách dịch vụ thẳng cho đối tượng được hưởng dịch vụ, bỏ cơ chế cấp qua tổ chức thực hiện. Trong lĩnh vực giáo dục, đối với những nơi, những đối tượng còn bao cấp, có thể nghiên cứu thay việc cấp kinh phí đào tạo cho các trường bằng việc cấp cho học sinh để họ tự tìm học ở trường họ muốn. Những lĩnh vực khác như việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo Luật Trợ giúp pháp lý cần được thực hiện linh hoạt hơn, bên cạnh cách thức hiện hành cần bổ sung thêm cách thanh toán qua ngân hàng chuyển cho đương sự để đương sự tự lựa chọn tổ chức, cá nhân phù hợp.
 
Việc xây dựng cơ chế chính sách đối với dịch vụ công cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: Điều tiết và kiểm soát các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong việc cung ứng dịch vụ công cộng theo đúng yêu cầu: giá cả chất lượng dịch vụ, đối tượng cung ứng dịch vụ...; khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công cộng, giảm gánh nặng cho bộ máy nhà nước; trợ cấp trực tiếp cho người tiêu dùng: chính sách miễn giảm thuế, miễn giảm học phí, cấp học bổng, miễn giảm các khoản đóng góp khác cho từng loại đối tượng, trợ cấp qua giá bán dịch vụ...
 
Để việc cung cấp dịch vụ công trong giáo dục đầy đủ và chất lượng không ngừng được nâng cao, Nhà nước phải không ngừng cải tiến việc cung ứng dịch vụ công ở tầm vĩ mô và cả các hoạt động cung cấp cụ thể.
 
Đối với tầm vĩ mô, việc cải tiến được hướng trước hết vào việc xác định rõ các loại dịch vụ công cộng nào thực sự là dịch vụ nhà nước cần phải đảm bảo cung cấp cho xã hội, mức độ can thiệp của Nhà nước trực tiếp hay gián tiếp qua việc cung cấp tài chính hay chỉ đơn giản là đề ra các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả; đồng thời có sự mở rộng tham gia của các chủ thể xã hội phù hợp với yêu cầu cung cấp các dịch vụ công; tiến hành phân công, phân cấp cụ thể cho các cấp chính quyền chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ công cho xã hội và công dân. Để các loại hoạt động cung cấp dịch vụ công của Nhà nước có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của người dân, Nhà nước phải không ngừng có những điều chỉnh, cải cách trong lĩnh vực này.
 

3. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính - ngân sách đối với lĩnh vực dịch vụ công trong giáo dục. Nhà nước đầu tư ngân sách hợp lý cho các dịch vụ công trong giáo dục, đồng thời thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công trong giáo dục.

 
Nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước và phát huy tốt nguồn lực của toàn xã hội cho hoạt động dịch vụ công trong giáo dục. Cơ cấu lại chi tiêu ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực dịch vụ công trong giáo dục theo hướng tập trung đầu tư thích đáng cho việc cung ứng các dịch vụ cơ bản thiết yếu nhất; đáp ứng các mục tiêu ưu tiên các chương trình quốc gia; phục vụ người dân vùng khó khăn miền núi; hỗ trợ người nghèo, đối tượng chính sách. Thực hiện phương thức phân bổ ngân sách cho các cơ sở cung ứng dịch vụ công theo hướng chuyển cơ chế cấp phát kinh phí cho đơn vị cung ứng sang hỗ trợ kinh phí trực tiếp cho người hưởng dịch vụ; chuyển cơ chế cấp kinh phí theo đầu vào sang cấp tính phí theo đầu ra tùy thuộc số lượng và chất lượng dịch vụ.
 
- Đối với những ngành nghề đào tạo ít có khả năng xã hội hóa (như các trường đào tạo sư phạm, đào tạo chương trình khoa học cơ bản, nghệ thuật truyền thống, điện hạt nhân,...): Thay vì phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước theo cơ chế ổn định 3 năm đối với tất cả các ngành nghề như hiện nay, Nhà nước sẽ thực hiện đặt hàng bằng việc cấp kinh phí trên cơ sở tính đủ chi phí đào tạo và có cơ chế sử dụng để đảm bảo hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, tránh lãng phí. Việc cấp kinh phí đào tạo cho các cơ sở đào tạo này phải dựa theo nhu cầu sử dụng thực tế của các ngành và các địa phương, không nên cấp kinh phí và đào tạo tràn lan vì hiện nay số sinh viên của các cơ sở đào tạo này ra trường thất nghiệp rất nhiều. Bộ Giáo dục – Đào tạo cần phối hợp với các ngành, các địa phương rà soát nhu cầu nguồn nhân lực thực tế hàng năm, từ đó có cơ sở phân bổ chỉ tiêu và cấp kinh phí đào tạo.
 
- Đối với những ngành nghề đào tạo có khả năng xã hội hóa cao: Xu hướng chung hiện nay trên thế giới là Nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm, nên Nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công này cho khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội. Vì vậy, cần giảm dần sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước đồng thời cho phép các cơ sở đào tạo tự xác định mức thu học phí, đa dạng hóa các nguồn thu của cơ sở đào tạo, tiến tới các cơ sở đào tạo tự đảm bảo bù đắp kinh phí đào tạo từ nguồn thu học phí, các nguồn thu về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các nguồn xã hội hóa khác. Tuy nhiên, Nhà nước cần quản lý chặt chẽ về chất lượng đào tạo và khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng sinh viên khi ra trường của các cơ sở đào tạo. Theo chúng tôi, đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội, Các cơ sở đào tạo cần quan tâm chú trọng đến sự tín nhiệm của xã hội, nhu cầu sử dụng thực sự của các cơ quan, các ngành, các cấp, các địa phương. Hiện nay, có nhiều ngành nghề trong các trường CĐ, ĐH được tuyển sinh và đào tạo ồ ạt, chỉ tiêu đào tạo vượt quá chỉ tiêu tuyển dụng. Dẫn đến hiện trạng nguồn cung nhân lực vượt quá cầu nhân lực. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tình trạng thất nghiệp của SV mới ra trường.
 
- Đối với các hoạt động đào tạo cung cấp dịch vụ gắn với nhu cầu của xã hội: Trường được quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở tính đủ các chi phí cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ tương xứng với chất lượng đào tạo; được tự quyết định chế độ chi trả tiền lương đối với giảng viên và cán bộ gắn với năng suất, chất lượng hiệu quả công việc; đồng thời phải chịu trách nhiệm trong việc đáp ứng các tiêu chí chất lượng đào tạo theo quy định và chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội về chất lượng đào tạo và công khai minh bạch các khoản thu, chi tài chính.
 

4. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công trong giáo dục thông qua các biện pháp cụ thể:

 

Thứ nhất, Tiếp tục hoàn thiện các mô hình hoạt động và quy định về xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục.

 
Hoàn thiện các mô hình và quy chế hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài công lập theo hướng: quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu hoạt động, nội dung, chất lượng dịch vụ, sản phẩm, chế độ sở hữu và cơ chế hoạt động; quy định chế độ tài chính, trách nhiệm thực hiện chính sách và nghĩa vụ xã hội của các cơ sở giáo dục hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.
 

Thứ hai, tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động và sử dụng ngân sách thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục.

 
Chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập sang cơ chế cung ứng dịch vụ. Sửa đổi Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công lập có thu chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ nhằm tạo điều kiện phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng hiệu quả đầu tư của nhà nước cho phúc lợi xã hội.
 
Hoạt động tài chính của cơ sở giáo dục hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ giáo dục phải được công khai và được kiểm toán; chênh lệch thu chi chủ yếu phải được dùng để đầu tư phát triển cơ sở.
 
Đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục theo hướng nghiên cứu xây dựng và từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ giáo dục do nhà nước đặt hàng; khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia.
 

Thứ ba, cụ thể hóa các chính sách khuyến khích xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục.

 
Xây dựng và thực hiện chính sách huy động nguồn lực của các ngành, các tổ chức kinh tế – xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục – đào tạo; huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn xã hội và ngành giáo dục vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện xã hội hoá dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục một cách toàn diện.
 
Cụ thể hóa các chính sách khuyến khích và quy định trách nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức kinh tế – xã hội và người sử dụng lao động tham gia đóng góp xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo; hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.
 

Thứ tư, đổi mới cơ bản chế độ học phí, trợ cấp học phí và học bổng cho người học.

 
Về chế độ học phí, ngoài phần hỗ trợ của nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dạy, học tập và có tích lũy để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục – đào tạo; bước đầu đủ bù đắp chi phí thường xuyên; xóa bỏ mọi khoản thu khác ngoài học phí.
 
Nhà nước có chính sách trợ cấp học phí hoặc học bổng cho học sinh giáo dục phổ cập, cho người học là đối tượng chính sách, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và những người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hay ngoài công lập.
 

Thứ năm, khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục – đào tạo và dạy nghề

 
Khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục – đào tạo và dạy nghề ngoài công lập; chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình ngoài công lập; hạn chế mở thêm các cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển; không duy trì các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.
 

Thứ sáu, khuyến khích mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo

 
Khuyến khích mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước ngoài; mở các cơ sở giáo dục – đào tạo có chất lượng cao, có uy tín bằng 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; khuyến khích các nhà khoa học, giáo dục có trình độ cao ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam. Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người, ở mọi nơi, mọi trình độ và mọi lứa tuổi để xã hội hóa dịch vụ công trong giáo dục ngày một thiết thực hơn.
 
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước cần có sự đổi mới vai trò trách nhiệm đối với dịch vụ công nói chung và với dịch vụ công trong giáo dục nói riêng. Tuy nhiên, việc đổi mới này không phải là làm giảm bớt mà ngược lại, phải xác định rõ và nâng cao hơn vai trò trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý và tổ chức cung ứng dịch vụ công cho người dân và xã hội, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp trong quản lý và tổ chức cung ứng từng loại dịch vụ công; thực hiện công bằng xã hội, trợ giúp người nghèo và các đối tượng chính sách, khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công trong giáo dục có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước và nhân dân.
 
Theo Công ty Luật TNHH TGS
 
 

Tin liên quan: